White BookVideo CD, Super Video CD, Blue Book CD EXTRA là gì?

White Book được giới thiệu năm 1993 bởi Philips, JVC, Matsushita và Sony. Nó trên cơ sở tiêu chuẩn Green Book (CD-i) và CD-ROM XA, cho phép lưu trữ lên tới 74 phút MPEG-1 video và dữ liệu âm thanh kỹ thuật số ADPCM trên một đĩa.

Phiên bản 2.0 của nó được phát hành vào tháng 4 năm 1995. Video CD 2.0 hỗ trợ sự nén MPEG-l với một tốc độ bit l.l5Mbps. Độ phân giải màn hình 352×240 cho định dạng NTSC và 352×288 cho định dạng European PAL. Thêm nữa, nó hỗ trợ âm thanh nổi tương thích Dolby Pro Logic.

Đi sâu vào chức năng

Bạn có thể nghĩ về các video CD như một loại định dạng DVD của người nghèo, mặc dù chất lượng hình ảnh và âm thanh thực sự khá hay — chắc chắn tốt hơn VHS hay phần lớn những định dạng video tape khác. Bạn có thể chơi các video CD trên bất kỳ PC nào với một ổ đĩa quang dùng Windows Media Player tự do (những ứng dụng người chơi đĩa khác cũng được dùng). Chúng cũng có thể được chạy trên các đầu DVD và thậm chí một số bản giao tiếp trò chơi, như là Playstation (với những tùy chọn đúng). Mặc dù bạn tạo ra VCD với các chương trình sản xuất DVD thông dụng như là Roxio Easy Media Creator, đĩa ghi VCD thì khó tìm thấy hôm nay, do sự phổ biến của định dạng DVD chất lượng cao hơn (và bảo vệ chống sao chép dễ dàng hơn) và các loại tương đương có độ phân giải cao hơn (Blu-ray và HD-DVD).

tìm hiểu các định dạng đĩa máy tính

Super Video CD

Super Video CD đặc điểm kỹ thuật l .0, được công bố vào tháng 5 năm 1999, là phiên bản mở rộng của đặc điểm kỹ thuật White Book Video CD. Nó dùng nén MPEG-2, độ phân giải màn hình NTSC 480×480 và độ phân giải màn hình PAL 480×576; nó cũng hỗ trợ âm thanh vòm (surround sound) MPEG-2 5.1 và đa ngôn ngữ.

Phần lớn chương trình tạo DVD tại gia có thể làm ra các Video CD hay Super Video CD.

Blue Book CD EXTRA

Các nhà sản xuất đĩa CD-DA đang tìm một phương pháp tiêu chuẩn để kết hợp cả âm nhạc lẫn dữ liệu trên CD. Mục đích là cho người dùng có thể chỉ chạy các rãnh âm thanh trong đầu audio CD tiêu chuẩn trong khi vẫn không nhận biết rãnh ghi dữ liệu. Tuy vậy, người dùng với máy tính hay đầu kết hợp âm thanh/dữ liệu chuyên dụng có thể truy cập các rãnh ghi âm thanh và dữ liệu trên cùng.

Vấn đề cơ bản với những CD chế độ được trộn không tiêu chuẩn là nếu khi một đầu âm thanh cố gắng chạy rãnh ghi dữ liệu, kết quả là đứng yên gây ra theo nghĩa tổn hại cho loa và có thể nghe được nếu có âm lượng. Những nhà sản xuất khác nhau ban đầu định vị vấn đề này bằng nhiều cách, dẫn đến một số phương pháp rối rắm cho việc tạo ra những loại đĩa này, một số trong chúng vân cho phép các rãnh ghi dữ liệu được “vận hành” ngẫu nhiên trên đầu âm thanh. Năm 1995, Philips và Sony phát triển đặc điểm kỹ thuật CD EXTRA, như đã định rõ trong tiêu chuẩn Blue Book. Các CD phù hợp với đặc điểm kỹ thuật này thường được xem như những đĩa CD EXTRA (trước kia được gọi là CD Plus hay CD Enhanced Music) và dùng công nghệ đa phiên được định rõ trong tiêu chuẩn CD-ROM XA để tách rời các các rãnh ghi dữ liệu và âm thanh. Những đĩa này là một hình thức của đĩa đa phiên được rập. Phần âm thanh của đĩa bao gồm lên tới 98 rãnh ghi âm thanh Red Book tiêu chuẩn, trong khi rãnh dữ liệu gồm có các sector XA Mode 2. chứa video, các ca khúc trữ tình, các hình ảnh tĩnh và nội dung đa phương tiện khác. Những đĩa này được định dạng bởi biểu trưng CD EXTRA, là biểu trưng CD-DA tiêu chuẩn với một ký hiệu dấu cộng phía bên phải. Thường thì biểu trưng hay nhãn mác trên gói đĩa bị bỏ qua hay che khuất, bạn có thể không biết một CD âm thanh chứa dữ liệu dư thừa này cho đến khi chạy nó trong một ổ đĩa quang trên máy tính.

Một đĩa CD EXTRA thông thường chứa hai phiên. Do các đầu CD âm thanh chi có một phiên, chúng chỉ vận hành được phiên âm thanh và lờ đi phiên thêm chứa dữ liệu. Tuy nhiên một ổ đĩa quang trong máy tính, thấy hai phiên trên đĩa và truy cập cả hai rãnh dữ liệu lẫn âm thanh.

Ghi chú:

Nhiều nghệ sĩ phát hành các CD âm thanh trên định dạng CD EXTRA bao gồm những phần những bài hát được ưa chuộng, video, tiểu sử nghệ sĩ, hình ảnh và nhiều nữa trong các tệp tin dữ liệu trên đĩa. Tidal do Fiona Apple (được phát hành năm 1996) là một trong các đĩa CD EXTRA đầu tiên từ Sony Music. Có nhiều phát hành CD EXTRA từ đó. Cho thí dụ những đĩa CD EXTRA (Enhanced CD) khác, bao gồm những phát hành hiện nay, xem WWW, musicfan. com.

DIVX

DIVX (Digital Video Express) là một định dạng DVD độc quyền xuất hiện ngắn ngủi được phát triển bởi Digital Video Express (một công ty luật Hollywood) và Circuit City. Nó ngưng sản xuất vào 16 tháng 6 năm 1999, chưa tới một năm sau khi phát hành.

Tên này tồn tại như một tiêu chuẩn mã hóa mở cho DVD video. Tuy nhiên, tiêu chuẩn mã hóa này thực sự không liên quan đến định dạng DIVX đầu tiên ngoài cái tên của nó.

Tính tương thích ổ đĩa DVD

Khi các ổ đĩa DVD xuất hiện đầu tiên trên thị trường, chúng được chào hàng là hoàn toàn tương thích ngược với các ổ đĩa CD-ROM. Mặc dù có thể là trường hợp đọc đĩa CD-ROM nén thương mại, không đúng khi đọc đĩa CD-R hav CD-RW. May mắn thay, nền công nghiệp đáp ứng các tiêu chuẩn để bạn hiểu ổ đĩa DVD của bạn sẽ tương thích như thế nào. Những tiêu chuẩn này được gọi là MultiRead cho các ổ đĩa trên cơ sở máy tính và MultiPlay cho máy tính xách tay của người tiêu dùng, như là DVD-Video hay các đầu CD-DA.